Đã nhiều năm trôi qua tôi không thể nào quên được ngày đen tối ấy.
Mùa thu, khi nắng vừa tắt cả thôn xóm, nhà nhà chìm vào bóng tối dưới màn đêm lành lạnh của gió heo may. Nhìn thật kỹ thứ ánh sáng hắt ra qua cái mành của cửa chính nhà một ai đó người ta mới biết đó là ngọn đèn dầu được bật tiết kiệm. Một chiếc đèn dầu nhỏ có bình dầu bé, và ngọn bấc mảnh mai.
Các cụ già nằm im trên giường nghe giọng đọc truyện đêm khuya qua cái đài cũ kỹ. Ngoài sân bọn trẻ con nô đùa hú hét dưới ánh trăng. Kỳ lạ, sao trăng ngày đó sáng thế. Có lẽ là do ánh sáng dưới mặt đất không đủ để phản lại ánh trăng đang rọi xuống, chứ không như bây giờ; đường đèn điện sáng trắng, người ta còn không buồn quan tâm ánh trăng nữa.

Đám trẻ nhỏ vui vẻ nô đùa trong sân nhà chị. Chị có một cô con gái 5 tuổi ở cùng với người mẹ neo đơn chồng đi chiến trận. Lũ trẻ con chúng tôi luôn thích sang chơi, vì chị vui tính lại ấm áp, hiền từ. Tiếng chị lanh lảnh nhưng lòng chị có lúc “nguội lạnh” bởi chị lấy chồng được vài năm thì chồng bỏ xứ đi làm ăn. Không chịu được cảnh mẹ chồng hà khắc, chị đã bế con về nhà mẹ. Từ ngày đó chúng tôi sang cùng chị.
Hôm ấy, chị rủ mấy đứa sang làng bên chơi. Chị đưa đứa cháu gái về, nó không chịu ngủ cùng bà ngoại. Bọn chúng tôi thích lắm, đứa nào cũng reo hò. Mà tôi thấy lạ, ngày đó bố mẹ lại thả chúng tôi tự do. Tối mù mịt không cần về nhà cũng được. Chị chuẩn bị một cái “đèn chai”. Tôi nghĩ rằng, chắc không nơi nào có thứ đèn lạ kỳ như vậy. Cái chai thủy tinh 65ml người ta làm thế nào mà bỏ phần cổ chai đi, còn lại phần thân của nó được úp lên một cái đế có ngọn bấc, chụp cái chai vào rồi phía trên luồn cái dây buộc vào cái que vào để xách. Cả đám chúng tôi cứ thế đi, gió có to cũng không làm tắt ngọn lửa. Tôi không thể nhớ kỹ cấu tạo nó như nào, nhưng hình ảnh cái chai chụp vào bên trong ngọn lửa sáng trưng thì tôi nhớ mãi. Nó hằn vào tâm trí tôi như nụ cười hiền từ của chị, mãi mãi không bao giờ quên.
Đám chúng tôi vừa đi dưới ánh trăng vừa hát nghêu ngao. Khoảng chục đứa bám lấy chị đang cầm cái đèn chai soi đường sang làng bên. Đi qua cánh đồng, gió thổi lành lạnh với hương lúa đang trổ bông. Mùi quê hương ấy, giờ đây thật khó kiếm. Chị lớn tuổi hơn đám chúng tôi nhưng tôi thấy sự gần gũi vô cùng. Tiếng cười nói xa dần, ánh đèn mờ dần, cứ thế tháng ngày tuổi thơ của tôi gắn với ngôi nhà của chị.
Ngôi nhà của chị mái lá liêu xiêu, nhà tre vách đất, ngày nắng thì sợ giòn, ngày mưa sợ rơm nát. Một năm một lần phải lợp lại mái sau cơn bão. Nhưng tôi rất thích nằm vào giường của chị, ngửa mặt lên nhìn những song rạ xếp thẳng hàng, rồi nghe chị ru con ngủ. Tôi không biết chị có buồn lòng không? Vì cảnh nuôi con một mình. Nhưng tôi biết chắc chị đã vượt qua nỗi buồn tủi thật mạnh mẽ.
Cuộc sống đang yên ả thì người chồng của chị trở về. Tôi nhìn người đàn ông cao to, nhiều râu trên mặt thấy vẻ hung dữ mà đứng nem nép bên cửa nhìn vào. Tôi không hiểu lắm chuyện gì đã xảy ra, nhưng từ hôm sau chị đã không còn ở đó. Và tôi ít sang chơi hơn. Tôi đã buồn rất nhiều vì thiếu tiếng nói cười của chị. Thiếu ánh sáng được phát ra từ chiếc đèn chai, cả những đêm được chị dạy hát dưới trăng.
Thời gian cứ thế trôi đi, tuổi thơ tôi gói gọn trong một trang nhật ký. Mười mấy năm sau khi quay trở lại quê, tôi hỏi dò tin tức của chị. Ngày ấy, chị đồng ý hàn gắn với với chồng. Cả hai đã chuyển đi vùng khác làm ăn. Họ sống với nhau hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mỏng manh của một người tốt bụng nhiều bao dung như chị. Rồi tôi nghe nói, chồng chị gặp bạo bệnh đã mất sau đó. Chị một mình cáng đáng mọi việc. Chị lầm lũi trở lại ngôi nhà cũ với mẹ già. Ngôi nhà khang trang nhưng lòng chị lại lạnh băng buốt giá. Giờ đây chị không còn dùng cái đèn chai giữ lửa nữa vì điện sáng trưng. Tôi lại ước, giá như mình biết làm nó, sẽ khiến lòng chị ấm hơn.
Tôi nhận được tin chị gặp tai nạn lòng nặng trĩu, nghĩ lại cuộc đời chị có mấy ngày sướng mấy ngày vui!
Swallow